Các Dự Án Fdi Tại Việt Nam 2020 Tại Việt Nam

Các Dự Án Fdi Tại Việt Nam 2020 Tại Việt Nam

(BKTO) - Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đánh giá, năm 2022, vốn đầu tư đăng ký mới của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tuy giảm song số dự án đầu tư mới tăng lên, vốn đầu tư điều chỉnh cũng tăng.

(BKTO) - Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đánh giá, năm 2022, vốn đầu tư đăng ký mới của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tuy giảm song số dự án đầu tư mới tăng lên, vốn đầu tư điều chỉnh cũng tăng.

Trung Quốc gia tăng đầu tư FDI tại Việt Nam

Thứ hai, 19/08/2024 19:26 (GMT+7)

(ĐCSVN) - Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), đã có 84 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024. Xét về số dự án, Trung Quốc là đối tác hàng đầu về số dự án đầu tư mới. Dòng vốn FDI Trung Quốc vẫn đang tăng tốc đổ vào Việt Nam

Thống kê của Bộ Kế hoạch đầu tư nêu rõ, gần đây, các nhà đầu tư Trung Quốc đã tăng tốc đầu tư vào Việt Nam. Năm 2023, các nhà đầu tư Trung Quốc đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam tới 4,47 tỷ USD, tăng 77,6% so với năm 2022; ngoài ra, 707 dự án mới, 179 dự án điều chỉnh vốn và 412 lượt góp vốn, mua cổ phần đã được các nhà đầu tư Trung Quốc đăng ký vào Việt Nam. Trong khi đó, 5 tháng đầu năm nay, con số là 347 dự án mới, 55 lượt dự án điều chỉnh vốn và 172 lượt góp vốn, mua cổ phần, với tổng vốn đăng ký 1,126 tỷ USD, đứng vị trí thứ 4 trong các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư lớn vào Việt Nam.

Đáng chú ý, dòng đầu tư này đang có sự gia tăng mạnh mẽ vào công nghiệp hỗ trợ để cung cấp cho các tập đoàn sản xuất thế giới tại Việt Nam.

Chế tạo vật liệu sản xuất pin năng lượng mặt trời tại Công ty TNHH JA Solar Việt Nam, vốn đầu tư Trung Quốc, tại Khu công nghiệp Quang Châu (Bắc Giang). Ảnh: Danh Lam/kinhtedothi.vn

Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến thời điểm hiện tại, nhiều dự án trị giá hàng trăm triệu USD, thậm chí lên tới cả tỉ USD từ Trung Quốc như Goertek, BYD, Radian, Brotex, Wingtech, Deli, Trina Solar… đã có mặt tại Việt Nam. Dư địa đầu tư FDI của Trung Quốc tại Việt Nam còn rất nhiều, đặc biệt là những dự án lớn, trọng điểm. Hợp tác trong lĩnh vực công nghệ cao cũng được doanh nghiệp hai nước thúc đẩy mạnh mẽ.

Trong ba động lực của tăng trưởng kinh tế gồm đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu, FDI đang dẫn dắt hoàn toàn yếu tố cuối cùng. Vào năm 1995, thị phần đóng góp cho xuất khẩu Việt Nam của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài lần lượt là 73% và 27%. Gần 30 năm sau, tỷ lệ này đảo ngược.

Trong 8 mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất đạt doanh số trên 10 tỷ USD vào năm ngoái, khu vực FDI chiếm vị thế chi phối trên 50% thị phần với 6 nhóm sản phẩm (trừ đồ gỗ và thuỷ sản). Đặc biệt, doanh nghiệp FDI nắm 98-99% giá trị xuất khẩu nhóm hàng công nghệ cao như máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại, linh kiện.

Tỷ trọng trong thị phần xuất khẩu của FDI với 8 nhóm hàng chủ lực

Khu vực FDI cũng chứng tỏ hiệu quả vượt doanh nghiệp nội trên nhiều khía cạnh.

Giai đoạn 2005-2021, FDI có 12/17 năm đứng đầu về tốc độ tăng trưởng so với doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân. Song song đó, dù hiện tượng chuyển giá, báo lỗ của nhiều ông lớn FDI được đề cập thường xuyên, thực tế khu vực này vẫn có khả năng sinh lời tốt hơn. Từ năm 2010 đến nay, doanh nghiệp FDI thường đạt tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu nhỉnh hơn doanh nghiệp Nhà nước và cao gấp 2-3 lần khu vực tư nhân.

Tính theo quy mô lao động, 56% công ty có nhân sự trên 1.000 người đều thuộc khối FDI. Nghĩa là, hơn một nửa doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đều có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Tỷ suất sinh lời của 3 khu vực doanh nghiệp

Nhưng thành công của thu hút FDI không chỉ nằm ở đóng góp vào GDP ngày càng tăng, giúp Việt Nam tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế, theo đánh giá của TS Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Ông cho rằng hoạt động của khối FDI đã gián tiếp đưa đến nhiều bài học về công nghệ, kinh nghiệm quản lý, giúp doanh nghiệp Việt lớn mạnh nhanh hơn. Nhiều công ty đã tự phát triển các dự án lớn phục vụ tiêu dùng trong nước từ bất động sản, dầu khí đến ôtô, công nghệ thông tin và còn vươn ra nước ngoài.

Tuy nhiên, một trong những hạn chế lớn nhất là sự thiếu liên kết giữa khối FDI với doanh nghiệp trong nước, và chuyển giao công nghệ chưa hiệu quả.

Trong các dự án FDI, hình thức nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm 13%, còn lại đều là 100% vốn ngoại. Một số liệu khác là trong gần 400 hợp đồng chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI 5 năm gần nhất, không có sự tham gia của công ty trong nước. Hệ quả là các công ty nội chưa thể theo dấu “đại bàng" để cất cánh.

Theo TS Thắng, nguyên nhân là công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa phát triển đủ nhanh, việc đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ cao và đưa các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam hợp tác với FDI chưa được quan tâm đúng mức. “Nếu nhà đầu tư nước ngoài có thiện chí chuyển giao công nghệ, họ sẽ chuyển giao cho ai?”, ông nói.

Nguyên cục trưởng dẫn chứng câu chuyện khi Honda mở nhà máy sản xuất xe gắn máy tại Việt Nam vào những năm 90, tập đoàn Nhật Bản khảo sát hàng chục công ty cơ khí nội địa, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Thế nhưng, họ không tìm được đối tác để hợp tác sản xuất phụ tùng, linh kiện. Nhà máy không thể nội địa hóa ngay từ đầu, chỉ tăng dần tỷ lệ theo thời gian.

Đồng quan điểm, chuyên gia nghiên cứu công nghiệp Nguyễn Thị Xuân Thuý cho rằng Việt Nam đã làm tốt việc thu hút số lượng dự án, nhưng chưa chủ động tận dụng hết cơ hội để học hỏi từ nhà đầu tư nước ngoài. Liên kết giữa FDI với doanh nghiệp trong nước còn lỏng lẻo. Số doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng doanh nghiệp nước ngoài còn hạn chế.

Ngoài ra, bà cho rằng quá trình quản lý FDI cũng để lại những “bài học đau thương” như: vụ xả thải ở Đồng Nai năm 2010, sự cố môi trường biển miền Trung năm 2016; hay nhiều chủ nhà máy FDI phá sản rời Việt Nam, bỏ lại công nhân với các khoản nợ lương, bảo hiểm xã hội…

Dù có những hạn chế, TS Phan Hữu Thắng cho rằng nên đánh giá quá trình thu hút, quản lý FDI 35 năm qua trong bối cảnh đất nước gần như phải bắt đầu từ con số 0 sau thời gian dài chiến tranh. Khi mở cửa, Việt Nam thiếu cả hạ tầng cứng lẫn kiến trúc thượng tầng quản lý kinh tế thị trường, công nghệ, tài chính.

“Thành công là chủ yếu, tồn tại là thứ yếu trong một quá trình phát triển nhanh”, TS Phan Hữu Thắng kết luận.

Để tránh lặp lại những hạn chế cố hữu, TS Thắng cho rằng các cơ quan chức năng cần hiện thực hóa đúng với định hướng trong nghị quyết của Bộ Chính trị năm 2019 về nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài. Ông nhấn mạnh chủ trương này đã nêu rõ tinh thần “hợp tác" với FDI thay vì “thu hút" đơn thuần.

“Có cơ hội từ dòng vốn trên toàn cầu đang dịch chuyển, nhưng Việt Nam còn nhiều việc phải làm nếu thật sự muốn có một làn sóng đầu tư mới”, chuyên gia nói.

- Dữ liệu về đầu tư nước ngoài và xuất khẩu tại thời điểm kết thúc năm 2022 theo Tổng cục Thống kê và Tổng cục Hải quan

- Thông tin về ba làn sóng FDI được trích dẫn từ nghiên cứu “Làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài thứ ba” của GS.TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

Nội dung và Dữ liệu: Việt Đức - Lê Tuyết

Bài 2: Thế hệ công nhân dở dang

Dấu ấn ODA Nhật Bản tại các dự án giao thông cho Việt Nam

Cầu Nhật Tân lung linh trong đêm. (Ảnh: Huy Hùng/TTXVN)

© Copyright 2012 HFIC, Corporation. All rights reserved