Đồng chí Trịnh Việt Hùng, sinh ngày 1/10/1977, quê quán xã Hồng Thái, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; trình độ học vấn Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh, Thạc sĩ Nông nghiệp, Kỹ sư Quản lý đất đai; được kết nạp Đảng ngày 24/9/2005.
Đồng chí Trịnh Việt Hùng, sinh ngày 1/10/1977, quê quán xã Hồng Thái, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; trình độ học vấn Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh, Thạc sĩ Nông nghiệp, Kỹ sư Quản lý đất đai; được kết nạp Đảng ngày 24/9/2005.
Đồng chí Lê Tiến Châu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH Hải Phòng chủ trì Hội nghị. Dự Hội nghị có đồng chí Đào Trọng Đức, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Trưởng Ban Tổ chức Thành ủy.
Theo Quyết định của Ban Thường vụ Thành ủy: Điều động, phân công đồng chí Phạm Tuyên Dương, Ủy viên Thành ủy, Bí thư Huyện ủy Vĩnh Bảo thôi tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy và thôi giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy Vĩnh Bảo nhiệm kỳ 2020-2025 để bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Sở Tư pháp.
Luân chuyển đồng chí Nguyễn Hoàng Long, Ủy viên Thành ủy, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư về công tác tại huyện Vĩnh Bảo; chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy và giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy Vĩnh Bảo nhiệm kỳ 2020-2025. Thời gian luân chuyển thực hiện theo quy định hiện hành.
Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Lê Tiến Châu, Bí thư Thành ủy chúc mừng hai đồng chí Phạm Tuyên Dương và Nguyễn Hoàng Long được nhận nhiệm vụ công tác mới. Đồng thời ghi nhận quá trình đóng góp của đồng chí Phạm Tuyên Dương đối với sự phát triển của huyện Vĩnh Bảo trong thời gian qua.
Đối với đồng chí Nguyễn Hoàng Long, đồng chí Bí thư Thành ủy đánh giá là cán bộ được đào tạo bài bản, rèn luyện qua nhiều vị trí công tác, vị trí nào cũng luôn làm tốt nhiệm vụ được giao.
Đồng chí Bí thư Thành ủy đề nghị đồng chí Nguyễn Hoàng Long trên cương vị công tác mới, tiếp tục nỗ lực cố gắng, luôn học hỏi, đoàn kết cùng tập thể lãnh đạo huyện Vĩnh Bảo lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, công tác xây dựng Đảng của địa phương. Đồng thời đề nghị các tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức huyện Vĩnh Bảo tiếp tục đoàn kết, tạo điều kiện để đồng chí Nguyễn Hoàng Long hoàn thành tốt các nhiệm vụ thành phố giao.
Ngày 9/12/2024,Tỉnh ủy Quảng Trị tổ chức Hội nghị công bố Quyết định số 1690- QĐ/TW ngày 16/11/2024 của Bộ Chính trị về việc điều động, phân công, chỉ định đồng chí Nguyễn Long Hải, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị nhiệm kỳ 2020 - 2025; chỉ định tham gia Đảng ủy Quân khu 4 nhiệm kỳ 2020 - 2025.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BẢO TÀNG VĨNH LONG
(Dinh tỉnh trưởng Vĩnh Long - Nay là Bảo tàng Vĩnh Long)
Bảo tàng được hình thành từ năm 1976, trên cơ sở tiếp thu Dinh Tỉnh trưởng của 02 thời kỳ Pháp và Mỹ, nguyên là phòng Bảo tồn - Bảo tàng trực thuộc Ty Văn hóa Thông tin tỉnh Cửu Long. Đến năm 1992, tỉnh Cửu Long được tách thành 02 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, Bảo tàng Vĩnh Long được thành lập theo Quyết định số 716/QĐ-UBT ngày 06/9/1993 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
(Quyết định số 716/QĐ-UBT ngày 06/9/1993 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc thành lập Bảo tàng tỉnh Vĩnh Long)
Sau khi chính thức được thành lập, Bảo tàng Vĩnh Long tiếp tục được sự quan tâm, đầu tư của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Văn hóa Thông tin (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long) để Bảo tàng thực hiện tốt chức năng nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học thông qua các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền phát huy tác dụng các di sản văn hóa của dân tộc nhằm phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Bằng sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, ngày 12/3/1998, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có Quyết định số 373/1998/QĐ-UBT về việc xếp hạng II cho Bảo tàng Vĩnh Long.
Tháng 9/1999, Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận cho phép đầu tư cải tạo nâng cấp cơ sở vật chất cho Bảo tàng. Đến ngày 01/02/2005, Bảo tàng Vĩnh Long đã tổ chức lễ khánh thành, từ đó tổ chức hoạt động của Bảo tàng ngày càng đi vào chuyên môn hóa, phong phú và đa dạng.
Ngày 06/9/2010, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã có Quyết định số 1996/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án Tổ chức và hoạt động Nhà Truyền thống Đảng bộ tỉnh tại xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ngày 22/12/2011, Nhà truyền thống Đảng bộ tỉnh được tổ chức lễ khánh thành, chính thức đi vào hoạt động.
Ngày 19/01/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long có Quyết định số 110/QĐ-UBND về việc thành lập Ban Quản lý Di tích tỉnh trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trên cơ sở tách phòng Bảo tồn, di tích Lịch sử Cách mạng Cái Ngang, khu tưởng niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng và khu tưởng niệm Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Đến ngày 30/5/2019, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch có Quyết định số 897/QĐ-SVHTTDL về việc sáp nhập Ban Quản lý di tích tỉnh Vĩnh Long vào Bảo tàng Vĩnh Long.
Từ một đơn vị nhỏ, cơ sở vật chất thiếu thốn, lạc hậu; nhân sự ít ỏi, chưa được đào tạo chuyên môn sâu, tư liệu hiện vật không nhiều. Đến nay, Bảo tàng đã phát triển thành một đơn vị sự nghiệp nòng cốt của ngành văn hóa, có 08 phòng, ban trực thuộc gồm: Phòng Hành chính, Phòng Quản lý Bảo tàng, phòng Quản lý Di tích, Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, Khu tưởng niệm Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Khu lưu niệm Giáo sư – Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, Di tích Lịch sử cách mạng Cái Ngang, Nhà Truyền thống Ðảng bộ tỉnh tại xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long và các di tích đã được xếp hạng; có 71 viên chức và người lao động, trong đó có nhiều viên chức đã được đào tạo chuyên môn sau đại học; bộ máy tổ chức, cơ sở vật chất không ngừng hoàn thiện. Tổng số hiện vật có trong Bảo tàng trên 27.000 tư liệu – hiện vật; trong đó có trên 100 cổ vật như: Tượng Kỳ lân (bằng đồng, có niên đại thế kỷ XIX); Mukhalinga (Sinh thực khí, bằng đá, có niên đại thế kỷ VI – VII, văn hóa Óc Eo); Thuyền độc mộc (bằng gỗ, đây là thuyền lớn thuộc loại hiếm, có niên đại thế kỷ XIV), Tượng Phật (bằng gỗ, niên đại thế kỷ XIX); đặc biệt tượng thần Vishnu Vũng Liêm (bằng đá sa thạch, niên đại thế kỷ VI - VII, văn hóa Óc Eo, đã được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2018); tượng Nữ thần Saraswati (bằng đá sa thạch, có niên đại thế kỷ VI - VII, thuộc nền văn hóa Óc Eo, lần đầu tiên được tìm thấy ở Việt Nam, là một tư liệu lịch sử quý hiếm tiêu biểu của đất nước,...Đã xây dựng 10 hồ sưu tập hiện vật và thực hiện 07 đề cương tư liệu. Bảo tàng có 03 khu nhà trưng bày, các chuyên đề trưng bày cố định thường xuyên được bổ sung và luân chuyển nguồn tư liệu, hiện vật. Đặc biệt, Bảo tàng quan tâm đến việc xây dựng đề cương và tổ chức các cuộc trưng bày chuyên đề phục vụ nhiệm vụ chính trị và các ngày lễ kỷ niệm trọng đại của tỉnh, của đất nước và và tổ chức đi trưng bày lưu động để phục vụ bà con vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đồng thời, đa dạng hóa công tác trưng bày, tuyên truyền; giao lưu với các Bảo tàng, các nhà sưu tập tư nhân, các cơ quan ban, ngành, các trường học;…được xem là một hoạt động cần thiết phải có hàng năm của Bảo tàng Vĩnh Long.
Ngoài ra, Bảo tàng thường xuyên tổ chức các hoạt động trình diễn các nội dung về loại hình Di sản Văn hóa phi vật thể như: Trình diễn nghề truyền thống đan đác, quết cốm dẹp, dệt chiếu, trầm nón lá, gói bánh tét, bánh dân gian…; trình diễn các loại hình đờn ca tài tử, hát bội,…phục vụ trong các dịp lễ, tết hàng năm.
Để chuẩn bị cho các đợt trưng bày chuyên đề phục vụ các ngày lễ lớn trong năm, Bảo tàng đã phối hợp với Đài Phát thanh Truyền hình, Báo Vĩnh Long, Báo Thanh niên, Phân xã Việt Nam tỉnh Vĩnh Long, Kênh truyền hình Quốc hội (thường trú tại Vĩnh Long),… tuyên truyền, quảng bá rộng rãi đến công chúng. Để mở rộng chức năng giáo dục, tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học cho công chúng, Bảo tàng còn hỗ trợ tư liệu, hình ảnh, hiện vật cho các trường học trong công tác giảng dạy, giúp các em hiểu sâu sắc hơn về Truyền thống Lịch sử của tỉnh, của đất nước, về các danh nhân và niềm tự hào dân tộc, yêu quê hương đất nước,…
Đồng thời, Bảo tàng phối hợp quay các phim tư liệu, in các tờ gấp, các tập sách giới thiệu, phim tư liệu về các hoạt động Bảo tàng và tập sách giới thiệu làng nghề truyền thống phục vụ các tầng lớp nhân dân trong, ngoài tỉnh và khách nước ngoài.
Đặc biệt, thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, ngày 24/11/2007 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vĩnh Long đã liên hệ Ban Quản lý khu Di tích Đền Hùng - tỉnh Phú Thọ tạo điều kiện để đưa Đất - Nước từ Đền Thượng về an vị tại ngôi nhà xưa trong khuôn viên Bảo tàng tỉnh. Ngày 15/4/2008 đến nay, lễ giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành Lễ hội thường niên của tỉnh trong những năm trở lại đây mà nhiều tỉnh khác của khu vực chưa thực hiện được. Vào ngày này, nhiều đoàn đại biểu của 8 huyện, thị xã, thành phố, lực lượng cán bộ, công chức, viên chức các sở, ban, ngành, đoàn thể và nhân dân trong tỉnh đều hướng về Bảo tàng Vĩnh Long, nơi thờ Quốc Tổ Hùng Vương để thắp hương, tưởng nhớ đến cội nguồn dân tộc và tham gia nhiều hoạt động lễ hội do tỉnh tổ chức.
Năm 2013, được sự thống nhất của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng đã tổ chức kỷ 20 năm thành lập để nhìn lại hoạt động của Bảo tàng Vĩnh long trong 20 năm qua. Đồng thời nhân dịp này, Bảo tàng đã tiếp nhận trên 100 hiện vật do các tổ chức, cá nhân hiện tặng để bổ sung vào các bộ sưu tập hiện vật của Bảo tàng.
Đến nay, tỉnh Vĩnh Long có 11 di tích được xếp hạng là di tích cấp quốc gia, 54 di tích được xếp hạng là di tích cấp tỉnh.
Hiện nay, Bảo tàng Vĩnh Long, di tích Văn Thánh miếu, Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, Khu tưởng niệm Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Khu lưu niệm GS – VS Trần Đại Nghĩa đã được Hiệp hội Du lịch đồng bằng sông Cửu Long chứng nhận là điểm du lịch tiêu biểu ĐBSCL.
Về công tác tuyên truyền, phục vụ khách tham quan, hàng năm Bảo tàng và các di tích được xếp hạng trong tỉnh đón trên ba trăm nghìn lượt khách đến viếng, tham quan, nghiên cứu, học tập. Có thể nói, Bảo tàng đã trở thành một trong những địa chỉ uy tín, tin cậy để giới thiệu và giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, văn hóa dân tộc cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Từ khi thành lập đến nay, Bảo tàng Vĩnh Long đã khẳng định vị trí của mình với những thành quả đáng kể trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa của dân tộc. Những thành quả ấy có được đều gắn liền với sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Nhà nước mà cụ thể là Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc sinh thời; sự lãnh đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; sự quan tâm ủng hộ của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, các vị cách mạng lão thành, các nhà nghiên cứu; cùng với công sức, trí tuệ, tình cảm của nhiều thế hệ lãnh đạo, viên chức tận tụy, yêu nghề, hết lòng vì sự nghiệp bảo tồn bảo tàng và sự nghiệp văn hóa.
Bằng những nỗ lực cố gắng ấy, Bảo tàng đã đạt danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc trong nhiều năm liền; Cờ thi đua xuất sắc của Ủy ban nhân dân tỉnh, Bằng khen của Chính phủ, …
Trong nhiều văn bản, Đảng và Nhà nước đã khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, sứ mệnh ấy của các hoạt động văn hóa cũng không hề thay đổi, nhất là đối với hoạt động của bảo tàng trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Hơn nữa, nhiệm vụ của công tác bảo tàng càng nặng nề hơn vì các biểu hiện xa rời truyền thống, phai nhạt lý tưởng, xuống cấp về đạo đức, lai căng về văn hóa đang diễn biến phức tạp và tác động xấu đến xã hội. Điều đó đòi hỏi ngành Văn hóa nói chung và công tác bảo tàng nói riêng cần tập trung lực lượng nâng cao hiệu quả, chất lượng các mặt hoạt động để thu hút ngày càng đông khách tham quan đến với Bảo tàng, tìm về với các giá trị lịch sử chân chính.
Phát huy truyền thống và thành tích đã đạt được, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong tình hình mới, Bảo tàng tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan, xây dựng Bảo tàng trở thành một điểm đến có sức hút với các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ bằng những công việc cụ thể như:
- Tiếp tục đưa đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiêp vụ cho đội ngũ viên chức để đáp ứng nhu cầu phát triển của Bảo tàng.
- Tăng cường công tác ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tàng phục vụ quảng bá di sản văn hóa, chương trình hoạt động, cung cấp thông tin về bảo tàng trên các phương tiện thông tin đại chúng, website, mạng xã hội (Facebook, Twitter...), nhằm khai thác những lợi ích của mạng xã hội và internet để kết nối được giữa người dân có nhu cầu du lịch, tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu thông tin, tư vấn về các dịch vụ, thông tin khoa học,…của bảo tàng. Tổ chức các chương trình quảng bá, phát triển công chúng, kết nối chặt chẽ với các tour, tuyến du lịch nhằm thu hút khách tham quan đến với bảo tàng.
- Điều tra, nghiên cứu đánh giá nhu cầu khách tham quan, xây dựng các chương trình giáo dục liên kết với các trường học và cộng đồng.
- Tăng cường sưu tầm, bổ sung cho các sưu tập tư liệu, hiện vật; đặc biệt là sưu tập hiện vật về nông nghiệp để chuẩn bị thành lập Bảo tàng Nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long tại tỉnh Vĩnh Long.
- Cải tạo, chỉnh lý nội dung trưng bày; đa dạng hóa các hoạt động của Bảo tàng và các khu di tích; tạo sức hấp dẫn, nhiều thông tin và đầy tính giáo dục để nhằm thu hút đông đảo công chúng đến với Bảo tàng.
- Bảo tàng cần mở rộng giao lưu, hợp tác với các Bảo tàng tại thành phố Hồ Chí Minh, Khu vực đồng bằng sông Cửu Long, bảo tàng tư nhân và đa dạng hoá các nguồn tài trợ để có thể tổ chức những hoạt động mà Bảo tàng mong muốn với chất lượng cao.
Ông Lê Quang Tùng, quê Hà Tĩnh, là cán bộ có nhiều năm công tác tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước khi được luân chuyển về địa phương.
Sinh ngày 30/10/1971 tại Xã Vượng Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh
Ủy viên BCH Trung ương Đảng: Khóa XII (dự khuyết)
Chuyên viên Vụ Bảo hộ Lao động, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Chuyên viên Vụ Kinh tế Đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chuyên viên Vụ Kinh tế Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Phó văn phòng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thư ký Bộ trưởng
Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục và Tài nguyên Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Vụ trưởng Vụ Kinh tế địa phương và vùng lãnh thổ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh
Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị nhiệm kỳ 2015-2020
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị nhiệm kỳ 2020-2025
LTS: Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút ngày 19/7/2024. VietNamNet xin trân trọng đăng tải bài viết của tác giả Lưu Mai Anh, ĐH Quốc gia Hà Nội về Tổng Bí thư. Bài viết được đăng trong cuốn “Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với tình cảm của nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế” và cuốn “Người Văn – Nghĩ và Sống” nhân kỷ niệm 50 năm tựu trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lớp Văn khóa VIII (1963 – 1967).
Tôi nghe nói về GS Nguyễn Phú Trọng đã lâu nhưng mãi thời điểm ông là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội, tôi mới có dịp gặp. Nơi làm việc của ông tại trụ sở Thành uỷ Hà Nội thật đơn sơ, bình dị. Là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, dù khi ấy đang rất bận rộn với công tác chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và biết bao công việc của Thành phố, nhưng ông vẫn cởi mở, chân tình tiếp tôi như với một người đã từng thân quen từ lâu. Với chất giọng trầm ấm, ông lần lượt trao đổi theo vấn đề tôi nêu, mà lại như những câu chuyện tự sự sâu lắng…
GS Nguyễn Phú Trọng sinh ngày 14/04/1944, trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội. Hai cụ thân sinh đều làm ruộng, sống ngay thẳng, nhân hậu và giữ nếp gia phong. Các anh chị em đều thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Năm 1947, ông theo gia đình tản cư lên Thái Nguyên. Năm 1950, ông hồi cư về sống trong vùng tề, hàng ngày chứng kiến biết bao cảnh đói khổ, giặc Pháp lùng sục, vây ráp, bắt bớ, tra tấn cán bộ du kích, Việt Minh. Làng xóm lúc nào cũng nơm nớp, lo sợ. Năm 1952, ông bắt đầu đi học thầy giáo trường làng - một thầy giáo già đức độ nhưng nghiêm khắc.
Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quê hương giải phóng, cậu học trò Nguyễn Phú Trọng được đi học trong không khí hoà bình, phấn khởi. Lớp 2 và lớp 3 ông học ở xã nhà. Khi lên lớp 4, ông phải đi học xa, vì hai xã mới có một lớp.
Trời rét cắt da cắt thịt cũng chỉ có vài manh áo mỏng, chân đi đất, phải đốt than bỏ vào ống bơ để sưởi ấm dọc đường. Lớp học là một gian "tảo mạc" tuềnh toàng của khu đình cổ. Được cái ông học rất "sáng dạ" nên năm nào cũng đứng ở tốp dẫn đầu lớp.
Từ năm 1957 đến năm 1963, ông học trường cấp II rồi cấp III Nguyễn Gia Thiều đóng tại Gia Lâm, Hà Nội. Nhà xa, lại cách trở con sông Đuống, ông và các bạn phải đi học từ 3 - 4 giờ sáng. Mùa hè còn đỡ, mùa đông rất vất vả, nhiều hôm trời mưa, đò không chở sớm, ông đành đến lớp muộn. Được một thời gian, phải trọ học.
Vài ba anh em ở nhờ một nhà dân, tự lo cơm nước và giúp đỡ nhau học tập. Ăn uống kham khổ, thiếu thốn, nhiều lúc ông phải vừa học vừa tự lao động kiếm sống. Có lẽ vì thế mà người thanh niên Nguyễn Phú Trọng đã sớm có ý thức tự lập và có ý chí vươn lên.
Ngay từ nhỏ, ông đã rất thích văn học dân gian và thường ước mơ được theo nghề văn hoặc nghề báo. Ham học lại thông minh nên học hết lớp 10, ông thi đỗ ngay vào Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (khoá 1963 - 1967).
Trường sở lúc này còn phân tán. Năm đầu học ở khu Chùa Láng, năm sau chuyển về khu Mễ Trì. Từ năm 1965 đến năm 1967, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán lên huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên). Đó là giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang hồi quyết liệt, nhưng thầy và trò nhà trường vẫn nêu cao quyết tâm dạy tốt và học tốt. Mỗi khi nhớ lại những tháng ngày học tập tại Đại học Tổng hợp Hà Nội, GS. Nguyễn Phú Trọng không khỏi bồi hồi xúc động pha lẫn sự tự hào.
Ông kể: "Vào một buổi sáng đẹp trời, đầu tháng 9.1963, chúng tôi tập trung ở giảng đường 1 - phố Lê Thánh Tông (tức khu 19 Lê Thánh Tông bây giờ). Trước lúc điểm danh, tôi đứng chơi dưới vườn Tao đàn. Ngước nhìn lên cổng trường ngắm mãi dòng chữ "Trường Đại học Việt Nam" sao mà cảm thấy lâng lâng, hãnh diện. Gặp nhau buổi đầu còn bỡ ngỡ, làm quen còn rụt rè, nhưng thấy bạn hữu ai cũng "siêu" cả, không học sinh giỏi nhất, nhì Văn toàn miền Bắc (lúc đó miền Nam chưa được giải phóng) thì cũng đứng đầu hàng tỉnh…".
Cuối năm 1964 - đầu năm 1965, trong không khí sục sôi đánh Mỹ, thanh niên học sinh đua nhau viết đơn bằng máu tình nguyện xin vào Nam chiến đấu, hối hả luyện tập, tập trận giả, tập hành quân, báo động, đào hào, đào hầm… Một số thanh niên lớp ông lên đường vào Nam chiến đấu, một số "phải ở lại" để tiếp tục học tập - chuẩn bị hành trang tri thức phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.
Ông thuộc nhóm thứ hai. Mái trường đại học đã chắp cánh cho ước mơ của ông. Ông được học Văn học - ngành mà ông hằng yêu thích. Ông đặc biệt say mê đọc, học thơ ca dân gian, truyện cổ dân gian, thơ Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu… những hồn thơ thấm đậm chất dân gian. Ông học vào loại giỏi, lao động cừ, tích cực tham gia các hoạt động của trường, lớp và Đoàn thanh niên.
Năm 1967, với sự hướng dẫn của GS Đinh Gia Khánh, cậu sinh viên năm thứ tư Nguyễn Phú Trọng đã bảo vệ thành công khoá luận tốt nghiệp về đề tài: "Thơ ca dân gian với nhà thơ Tố Hữu" với điểm tối ưu duy nhất của khoá đó. Cùng năm này (1967), ông vinh dự được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam, một điều rất hiếm đối với sinh viên thời bấy giờ.
Nhà trường có ý định giữ ông lại làm cán bộ giảng dạy. Ông cảm thấy rất vui và hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi thực tế lại diễn ra theo chiều hướng khác: ông được điều động về công tác tại Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản) - cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông hoàn toàn bất ngờ và không khỏi băn khoăn, lo lắng, nhưng đã là đảng viên thì phải chấp hành sự phân công của tổ chức.
Ông bắt đầu sự nghiệp ở Tạp chí Học tập bằng việc đọc, phân loại, ghi phích, làm công tác tư liệu. Ông kể: "Thú thật là những ngày đầu tôi thấy nản vì công việc khô khan, đơn điệu. Tôi ngỏ ý muốn được làm công tác nghiên cứu và biên tập về lĩnh vực văn học nghệ thuật, nhưng các đồng chí lãnh đạo trả lời là làm gì thì cũng phải làm tư liệu, bắt đầu từ tích luỹ kiến thức.
Tôi nghe thấy có lý và cố quen dần với công việc". Từ đó, cùng với việc làm tư liệu, ông đặt cho mình nhiệm vụ viết bài, bắt đầu từ những chuyên đề nhỏ. Thế rồi bài báo đầu tiên của ông đã ra đời sau hàng năm trời thai nghén, ấp ủ (Bài "Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu" đăng trên Tạp chí Văn học số 11.1968).
Được các đồng nghiệp trong tạp chí động viên, giúp đỡ tận tình, cộng với sự cầu thị, ham học hỏi, ông tiến bộ khá nhanh. Năm 1971, theo chủ trương chung, ông được cơ quan phái đi thực tế dài hạn (1 năm) ở xã Phú Lãm, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông ở nhà dân, ăn chung với dân, cũng "bám đội, lội đồng", tham gia lao động và sinh hoạt Đảng như một xã viên, đảng viên của xã.
Năm 1973, ông được cử đi học lớp nghiên cứu sinh Kinh tế chính trị tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). Là học viên trẻ của Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ, nhưng ông đi học đúng vào thời điểm bố ốm nặng do bị tai biến mạch máu não, vợ mới sinh con, bản thân vừa mới phục hồi sức khoẻ sau một thời gian bị chảy máu dạ dày nên ông gặp không ít khó khăn.
Điều lý thú và bổ ích đối với ông lúc đó là được rảnh rang công việc, tập trung nghiên cứu trực tiếp các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Riêng bộ "Tư bản" ông đã được học, được nghiên cứu trong gần một năm. Đó là một dịp hết sức hiếm và quý để ông có thể tự trau dồi thêm kiến thức, lấy đó làm nền tảng cho sự nghiệp sau này.
Năm 1981, ông được cử sang Liên Xô làm thực tập sinh, học tập và bảo vệ luận án tiến sĩ tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Liên Xô (thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô). Ông lại đứng trước một loạt khó khăn mới: ngôn ngữ mới, ngành học mới; làm sao trong hai năm vừa nghe giảng, vừa thi, hoàn tất phần minimum về Xây dựng đảng, vừa viết và bảo vệ luận án tiến sĩ.
Ông thực sự lo lắng và chẳng có cách nào khác là lại phải quyết tâm "trần lưng ra chịu trận". Cuối cùng ông đã đạt được kết quả xứng đáng với công sức bỏ ra: thi đỗ phần minimum với điểm tuyệt đối và là người đầu tiên của Khoa bảo vệ thành công luận án, trước thời hạn hai tháng.
Tháng 8/1983, ông về nước, tiếp tục công tác ở Ban Xây dựng Đảng của Tạp chí Cộng sản. Được đề bạt làm Phó trưởng ban (tháng 10.1983), Trưởng ban (tháng 9.1987), Uỷ viên Ban biên tập (tháng 3.1989), Phó tổng biên tập (tháng 5.1990) rồi Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản (tháng 8/1991).
Ông còn nhớ, hồi học phổ thông ông thích nghề làm báo chỉ đơn giản là do cảm tính, thấy "được bay nhảy", "được đi đây đi đó", nhưng càng về sau này, qua thực tế công việc, ông càng hiểu nghề báo đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và càng yêu nghề báo hơn.
Gần 30 năm công tác tại Tạp chí Cộng sản, GS Nguyễn Phú Trọng đã kinh qua nhiều công việc và đã viết, biên tập hàng trăm bài báo lý luận với nhiều thể loại khác nhau, từ xã luận, chuyên luận, bình luận, tiểu phẩm đến giới thiệu sách, giới thiệu kinh nghiệm thực tiễn, phê phán các biểu hiện sai trái, tiêu cực… với tất cả sự trải nghiệm và tâm huyết của mình với nghề.
Ông bảo: "Nghề báo là nghề cao quý, nhưng vô cùng gian khổ, khó khăn. Nhà báo phải hiểu đúng và nắm rất vững chức năng, nhiệm vụ của tờ báo mà mình phụng sự, cộng tác. Những người làm ở tạp chí lý luận chính trị như Tạp chí Cộng sản càng phải có cố gắng lớn, quyết tâm cao và thực sự có lòng say mê, yêu nghề, ham học hỏi và đặc biệt là có một phương pháp làm việc đúng".
GS Nguyễn Phú Trọng đã gắn bó và có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng và phát triển của Tạp chí Cộng sản, nhất là từ khi ông làm Phó tổng biên tập rồi Tổng biên tập, Tạp chí đã có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các bài viết đã bớt tính kinh viện, bám sát các vấn đề của cuộc sống, có thêm nhiều hàm lượng thông tin; nhiều bài viết đã đi sâu vào thực tiễn, phục vụ đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Năm 1992, ông được phong học hàm phó giáo sư và 10 năm sau, ông được phong học hàm giáo sư...
Ông được cán bộ và nhân dân Hà Nội quý mến, tin tưởng bởi trí tuệ, phong cách, tinh thần làm việc, tính khiêm nhường và sự nhạy bén linh hoạt trong giải quyết công việc của ông. Nhiều người đã gửi thư bày tỏ tình cảm, sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có cá nhân ông.
Những người cùng làm việc hoặc đã từng gần gũi GS Nguyễn Phú Trọng cho biết, ông sống rất giản dị, chân thành, tôn trọng, gần gũi anh em, đồng nghiệp, sâu sát thực tế, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng. Ông dường như chẳng có thời gian để nghỉ ngơi. Thứ bảy, chủ nhật ông "thư giãn" bằng cách đi cơ sở, xuống tiếp xúc với dân, khảo sát thực tế hoặc đi thăm bạn bè.
Báo chí đã kể nhiều về những chuyến đi của ông xuống tận địa bàn để tìm hiểu, kiểm tra và giải quyết những vấn đề khúc mắc, như: khu "xóm liều" Thanh Nhàn, khu xử lý rác thải Sóc Sơn, Công ty Vận tải xe buýt... những chuyến thăm viện dưỡng lão, trung tâm cai nghiện ma tuý, trung tâm bảo trợ xã hội, các gia đình có hoàn cảnh khó khăn...
Ông là người có ý thức giữ gìn phẩm chất, đạo đức, không lợi dụng chức quyền để vun vén riêng tư cho cá nhân và gia đình. Đi làm, trưa ông vẫn thường ăn cơm ở nhà bếp tập thể cơ quan cùng anh em; những cuộc họp lớp gặp gỡ bạn cũ ông vẫn "mày tao chi tớ", sôi nổi như thủa sinh viên.
Ông thường bảo: "Con người ta mỗi người một số phận, hôm nay làm việc này, ngày mai có thể làm việc khác, sống với nhau cốt ở cái nghĩa, cái tình". Ông còn bộc bạch: "Tôi biết có nhiều việc mình chưa làm được, nhiều dự định chưa hoàn thành, trong công tác còn nhiều khuyết điểm; ở cương vị của người chèo lái, tuyệt đối không được phép chủ quan; trái lại phải cố gắng, nỗ lực hết mình mới có thể hoàn thành nhiệm vụ".
Năm 2000, cô Đặng Thị Phúc - giáo viên đã từng dạy GS Nguyễn Phú Trọng khi ông học lớp 4 - với tất cả tình cảm trìu mến, đã viết tặng ông bài thơ có đoạn:
Nay thành cán bộ cấp cao giúp đời
Bõ công chăm sóc từ thời ấu thơ"
Đó chính là hạnh phúc của "người lái đò" như cô giáo Đặng Thị Phúc và cũng là hạnh phúc của người học trò "qua sông" đang ngày đêm miệt mài, tận tụy đem sức mình đóng góp cho đất nước, cho quê hương như GS Nguyễn Phú Trọng!
Lưu Mai Anh (ĐH Quốc gia Hà Nội)
Nguyễn Đình Chiểu tục gọi là Cụ Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù) sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh).
Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy tự Dương Minh Phủ quê ở Thừa Thiên vào Gia Định khoảng năm 1822 làm Thư lại trong dinh Tổng trấn Gia Định thành của Tả quân Lê Văn Duyệt. Vào Gia Định, Nguyễn Đình Huy cưới người vợ thứ là bà Trương Thi Thiệt làng Tân Thới, huyện Bình Dương, sinh được bảy người con, Nguyễn Đình Chiểu là con trai đầu lòng. Nguyễn Đình Chiểu sinh ra trong thời kỳ chế độ phong kiến mục nát bộc lộ những mâu thuẫn xã hội gay gắt và đang đi vào con đường bế tắc. Tình hình nước nhà dưới triều Nguyễn thật bi đát. Nông dân ngày càng bần cùng hóa. Ruộng đất hầu hết đều nằm trong tay triều đình, quan lại, địa chủ phong kiến. nông dân nhiều nơi không có một tấc đất cắm dùi. Tô, thuế, sưu, dịch hết sức nặng nề. Nạn đói và bệnh dịch hoành hành nhiều nơi. Hàng vạn người chết đói và chết vì bệnh dịch, nhiều nơi dân đói khổ quá phải bỏ làng kéo đi tha phương cầu thực. Phong trào nông dân chống lại triều đình nổ ra ở nhiều nơi, như Phan Bá Vành (1821) Lê Duy Lương và Lê Duy Hiển (1831), Lê Văn Khôi (1833), Nùng Văn Vân (1833), Lê Duy Cừ và Cao Bá Quát (1858), Lê Duy Minh và Trần Văn Tùng (1858), Nguyễn Văn Thịnh tức Cai Vàng (1862) v.v… Năm Qúy Tỵ (1833) Lê Văn Duyệt chết, Minh Mạng vốn ghét Lê Văn Duyệt vì Duyệt chủ trương tăng cường quyền hành địa phương của dinh Tổng trấn, vả lại Duyệt là một người không ủng hộ việc đưa Minh Mạng lên ngôi vua, nhưng Lê Văn Duyệt vốn thuộc hạng khai quốc công thần của Gia Long lại nắm binh quyền, uy thế rất lớn nên Minh Mạng khó trừng Trị ông ta. Khi Lê Văn Duyệt chết, bọn quan lại tay sai của Minh Mạng đến thay Duyệt như tổng đốc Nguyễn Văn Quế, bố chánh Bạch Xuân Nguyên đã dựng lên vụ án Lê Văn Duyệt có âm mưu khởi loạn. Lê Văn Duyệt bị truất hết chức vụ, xiềng mả, toàn bộ gia nhân bị hạ ngục, chức tổng trấn Gia Định thành bị bãi bỏ. Lê Văn Khôi con nuôi của Lê Văn Duyệt được sự ủng hộ của tù nhân, binh lính và nhân dân địa phương chống lại triều đình, chiếm thành Phiên An (Sài Gòn) bắt giết Nguyễn Văn Quế và Bạch Xuân Nguyên. Cuộc nổ dậy của Lê Văn Khôi ở Gia Định kéo dài đến năm 1835 thì bị triều đình nhà Nguyễn đàn áp hết sức dã man hàng ngàn bị chết và chôn chung vào một huyệt lớn mà triều đình Nguyễn gọi là “Mả Ngụy”. Khi cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi bùng nổ ở Gia Định, Nguyễn Đình Huy thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu bỏ nhiệm sở trốn về Huế và bị triều đình cách chức. Sau đó ông tìm cách đưa Nguyễn Đình Chiểu ra Huế ở nhờ một người bạn thân để Nguyễn Đình Chiểu có điều kiện học hành, năm đó Nguyễn Đình Chiểu được 12 tuổi. Sau tám năm chăm chỉ học hành, năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định. Tại trường thi Hương Gia Định khoa thi năm Quý Mão (1843), Nguyễn Đình Chiểu đỗ Tú Tài, năm ấy ông được 21 tuổi. Khi ấy một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông. Năm Bính Ngọ (1846) Nguyễn Đình Chiểu ra Huế học chờ này dự khoa thi Hội năm Kỷ Dậu (1849) tại kinh đô, nhưng chưa đến ngày thi thì ông nhận được tin mẹ mất. Gặp tin buồn đột ngột, Nguyễn Đình Chiểu quyết định bỏ thi cùng với người em trở về Nam chịu tang mẹ. Trên dường đi vì thương khóc và bệnh hoạn xảy ra dọc đường ông bị mù mắt. Trong thời gian bị bệnh, ông ngự tại nhà ông lang Trung tại Quảng Nam để dưỡng bệnh và cũng tại đây ông học được nghề thuốc. Năm ấy Nguyễn Đình Chiểu 27 tuổi. Bị tật nguyền, dở dang việc công danh đang độ tuổi thanh xuân, Nguyễn Đình Chiểu rất đau lòng về cảnh ngộ của mình. Tuy vậy ông không nản chí, con đường lập thân bằng khoa cử không còn hy vọng, ông quyết tâm đem sở học của mình làm những việc có ích cho đời, có ích lợi cho nhân dân. Sau khi mãn tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học ở Bình Vi (Gia Định), tiếp tục nghiên cứu nghề làm thuốc và bắt đầu sáng tác thơ văn. Trước đây ông đặt tên hiệu cho mình là Mạnh Trạch Phủ hay Trọng Phủ,sau khi bị mù lòa ông lấy biệt hiệu là Hối Trai (cái nhà tối). Từ khi gặp phải cảnh không may trở thành người tàn tật, đời riêng của ông lại thêm lắm nỗi đau buồn. Khi ông vừa đỗ Tú Tài ở Gia Định, một nhà phú hộ trong vùng hứa gả con gái cho ông, nhưng khi ông bị mù thì nhà kia bội ước. Ngoài 30 tuổi Nguyễn Đình Chiểu vẫn sống độc thân và tìm nguồn vui trong việc dạy dỗ môn sinh, thỉnh thoảng lại chữa bệnh giúp cho đồng bào. Một người học trò của Nguyễn Đình Chiểu là Lê Tăng Quýnh làng Thanh Ba, Cần Giuộc, rất mến phục và thông cảm sâu sắc với cảnh ngộ của thầy đã xin với gia đình gả em gái thứ năm là Lê Thị Điền cho người thầy học của mình. Đây là thời kỳ Nguyễn Đình Chiểu vừa dạy học vừa sáng tác truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng, một tác phẩm mang tính chất tự truyện của tác giả Trong lúc Nguyễn Đình Chiểu gặp phải nhiều tai biến thì đất nước ngày càng lâm vào cảnh rối ren. Năm 1858, giặc Pháp nổ súng đánh chiếm cửa Hàn (Đà Nẵng) mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Ngày 17 – 2 1859, Pháp đưa chiến thuyền theo của biển Cần Giờ vào đánh chiếm thành Gia Định. Từ đây Nguyễn Đình Chiểu cùng chung số phận với nhân dân trong hoàn cảnh đất nước quê hương nhuộm màu khói lửa. Giặc Pháp chiếm thành Gia Đinh, Nguyễn Đình Chiểu về quê cùng vợ tại làng Thanh Ba, Cần Giuộc ông đã chứng kiến tội ác dã man của giặc và cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của nghĩa quân ở các vùng xung quanh và chính tại nơi ông cư ngụ. Dù đã mù lòa, nhưng Nguyễn Đình Chiểu hết sức gắn bó với nghĩa quân yêu nước, ông vẫn thường xuyên thu từ liên lạc với những người lãnh đạo nghĩa quân. Em út của ông là Nguyễn Đình Huân chiến đấu trong hang ngũ nghĩa quân của Đốc binh là hoạt động trong vùng Biên Hòa, Gia Định. Thời gian ở Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành sáng tác truyện Dương Từ - Hà Mậu, trong đó ông phê phán những điều vô lý của đạo Phật và đạo Thiên chúa, đề cao đạo lý làm người của đạo Nho. Cũng chính trong thời gian này ông dã viết tác phẩm nổi tiếng “Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc”. Ngày 14 – 12 – 1861, quân Pháp đánh chiếm Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Ba tỉnh miền Đông lần lượt rơi vào tay giặc Tình hình đất nước ngày càng một đen tối, triều đình nhà Nguyễn nhu nhược ươn hèn đã ký hiệp ước năm 1862 nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Bộ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Pháp, thừa nhận quyền tự do thông thương, tự do truyền đạo và bồi thường chiến phí 20 triệu phơ-răng trong vòng 10 năm. Khắp nơi trong vùng giặc chiếm, sĩ phu yêu nước kéo nhau tị địa về ba tỉnh miền Tây lúc bấy giờ còn dưới sự kiểm soát của triều đình. Nguyễn Đình Chiểu và gia quyến phải rời Cần Giuộc về Ba Tri và sống ở đây cho đến cuối đời. Các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định và nhiều người khác đã chống lại lệnh giải binh của triều đình, tự động dựng cờ chống Pháp, tổ chức duy trì và mở rộng cuộc kháng chiến ở Gia Định – Gò Công. Trương Định theo nguyện vọng của nhân dân không tuân lệnh điều động đi nơi khác của triều đình, ở lại Gò Công cùng vơi nhân dân đánh giặc, được nhân dân suy ông là “Bình Tây Đại Nguyên Soái”. Căn cứ của Trương Định đặt tại Gò Công, nhưng tầm hoạt động của ông rất rộng. Từ Gò Công, Trương Định liên kết với nghĩa quân của Đỗ Trình Thoại ở Bình Hòa, Phan Văn Đạt và Lê Cao Dõng ở Tân An, Nguyễn Văn Lịch tức Nguyễn Trung Trực ở Nhật Tảo, Phủ cậu, Trần Xuân Hòa ở Thuộc Nhiêu, Mỹ Tho… và đã trở thành người lãnh đạo kiệt xuất của phong trào.
Nguyễn Đình Chiểu không trực tiếp ham gia đánh giặc, nhưng ông hoàn toàn tán thành hành động chống lại “thiên tử chiếu” của Trương Định và các sĩ phu chống Pháp. Ông thường có thư từ liên hệ với Trương Định và một số lãnh tụ nghĩa quân. Trương Định rất mến phục ông, thường gửi thư hỏi ý kiến về việc dân việc nước. Trong thời gian về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt sáng tác thơ văn phê phán sự nhu nhược của triều đình và bọn quan lại bất tài, vạch mặt xấu xa của bon nho sĩ đầu hang giặc như Tôn Thọ Tường. Phong trào tự động kháng chiến của nhân dân mặc dù rất oanh liệt, nhưng không ngang sức với kẻ thù, rốt cuộc đều chịu thất bại rất đau đớn. Năm 1864, Trương Định bị phản bội, trong chiến đấu ông bị thương nặng và tự sát không để rơi vào tay địch, nghĩa quân lần lượt tan rã. Năm 1867, giặc Pháp chiếm đóng luôn ba tỉnh miền Tây Nam Bộ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử. Phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân tạm lắng một lúc rồi lại bùng lên. Phan Liêm và Phan Tôn nổ lên ở bến Tre. Nguyễn Hữu Huân sau 7 năm bị đày ở nước ngoài trở về lại khởi nghĩa ở Mỹ Tho, Nguyễn Trung Trực khởi binh ở Rạch Giá. An hem Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự hoạt động ở ở vùng Cần Thơ, Bạc Liêu, Phan Tòng ở Ba Tri. Phong trào “đạo lành” của Trần Văn Thành ở Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc. Nguyễn Văn Bường và Phạm Văn Hớn khởi nghĩa ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn. Tuy nhiên, những phong trào cuối cùng cũng bị giặc Pháp đàn áp tan rã. Tiếp theo, năm 1873, thành Hà Nội thất thủ lần thứ nhất. Nguyễn Tri Phương trúng đạn rồi tuyệt thực chết. Năm 1882 Hà Nội thất thủ lần thứ hai, Hoàng Diệu tuẫn tiết. Năm 1885, giặc Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu kêu gọi Cần Vương. Năm 1888, Hàm Nghi bị bắt và bị đi đày đi An-giê-ri. Niềm hy vọng của mọi người và của Nguyễn Đình Chiểu về công cuộc chống Pháp giữ gìn đất nước đến đây đành tắt hẳn. Cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lược của nghĩa quân tuy phải chịu thất bại vì sức yếu, thế cô, nhưng gương hy sinh anh dũng của nhân dân và các lãnh tụ nghĩa quân vẫn chói ngời trong tâm trí mọi người. Hồ Huân Nghiệp ngâm thơ trước khi chịu chết. Thủ Khoa Huân khi giặc đưa ra xử chém. Thái độ rất bình tĩnh ung dung. Phan Văn Đạt chửi mắng kẻ thù trước khi ngả xuống. Nguyễn Trung Trực trước giờ bị hành hình đã nói với kẻ thù:
“Bao giờ đất này hết cỏ thì mới hết người Nam đánh Tây”. Lịch sử đau thương nhưng oanh liệt của dân tộc, tấm gương hy sinh anh dũng của những anh hùng liệt sĩ có tên và không tên đã làm cho Nguyễn Đình Chiểu cảm xúc hết sức mãnh liệt, ngòi bút yêu nước của ông đã phản ánh những tấm gương ấy dưới nhiều thể loại văn học khác nhau một cách đậm đà, sâu sắc, rung động lòng người. Văn thơ yêu nước là một mảng sáng tác lớn giàu tính chiến đấu, đỉnh cao trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu. Những ngày sống ở Ba Tri là những ngày đau buồn nhất của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, những người bạn đồng tâm, đồng chí phần lớn đã hy sinh, số còn lại tị địa ra Bình Thuận. Ông sống âm thầm đau khổ vừa dạy học vừa làm thuốc giúp dân. Thời gian này ông đem hết tâm huyết gửi gắm vào các bài văn tế, thơ điếu đầy bi tráng thương khóc những người vì nước quên mình và sáng tác truyện "Ngư tiều y thuật vấn đáp" có nôi dung vừa dạy thuốc vừa dạy người, trong đó nổi bật lên tâm hồn và ý chí thương dân, yêu nước, khí phách kiên tung bất khuất của chính bản thân tác giả. Bọn thực dân Pháp rất xảo quyệt, chúng biết Nguyễn Đình Chiểu có uy tín lớn trong dân nên tìm cách mua chuộc ông. Tên Misen Pông sông (Michel Ponchon), Tỉnh trưởng Bến Tre mấy lần đến gặp Nguyễn Đình Chiểu. Hắn giả vờ xin ông nhuận sắc cho tập thơ Lục Vân Tiên mà hắn cho là một tác phẩm rất đáng trân trọng. Hắn tỏ ý muốn cấp tiền cho ông lúc tuổi già, lần cuối cùng hắn đặt vấn đề trả lại đất đai cũ nơi quê nhà của ông ở Gia Định mà chúng đã chiếm đoạt.
Những lần gặp gỡ và đối diện với tên Pông sông, Nguyễn Đình Chiểu đã tỏ thái độ dứt khoát, khảng khái từ chối mọi đề nghị của kẻ thù. Ông đã thẳng thừng trả lời Pông sông :
“Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”.
Cuối cùng Pôngsông hỏi ông muốn gì? Ông nói: Muốn được làm lễ tế nghĩa quân lục tỉnh trận vong, những người vì nước quên mình mà ông rất kính phục.
Được viên Tỉnh trưởng chấp thuận, tại chợ Đập (chợ Ba Tri ngày nay), Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với nhân dân công khai tổ chức trọng thể lễ tế nghĩa sĩ lục tỉnh trận vong. Bài “ Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh” do ông sáng tác và đọc tại buổi lễ làm cho hàng ngàn người có mặt xúc động không cầm được nước mắt. Buổi lễ đã gây ấn tượng sâu sắc trong nhân dân về “Khúc ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” và đã trở thành sự kiện có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nhân dân ở nhiều nơi trong vùng kể từ khi giặc Pháp hoàn thành việc chiếm đóng Nam Kỳ lục tỉnh. Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu về cảnh vợ mất, nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng. Trong những ngày cuối cùng, nhà thơ sống trong cảnh nghèo nàn thanh bạch với sự yêu thương đùm bọc của nhân dân. Ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, (tức là ngày 3-7-1888),
Nguyễn Đình Chiểu qua đời trong một căn nhà nhỏ tại làng An Bình Đông (gần chợ Ba Tri, thuộc Trị trấn Ba Tri ngày nay), thọ 66 tuổi. Nhân dân, bạn bè, học trò và con cháu đưa đám ma ông rất đông, khăn tang trắng cả cánh đồng An Đức nơi ông yên nghỉ cuối cùng cách chợ Ba Tri 1 cây số.
Từ khi Nguyễn Đình Chiểu mất cho đến nay, hàng năm đến ngày giỗ ông, nhân dân trong vùng Ba Tri và nhân sĩ trí thức có tinh thần dân tộc yêu nước ở khắp nơi đều tổ chức kỷ niệm ông với nhiều hình thức tưởng nhớ, đậm đà lòng yêu mến, một con người tiêu biểu cho lòng yêu nước và đạo lý làm người Việt Nam, cuộc đời tuy chịu nhiều đau khổ nhưng tiết tháo rất thanh cao. Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với vận mệnh của đất nước và nhân dân trong cả một giai đoạn lịch sử bi tráng của dân tộc. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu phản ánh trung thành biến cố của cả một thời dại, tiêu biểu cho tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân ta trong nửa cuối thế kỷ 19. Nhà thơ lớn của dân tộc.
Nguyễn Đình Chiểu, xứng đáng là ngọn cờ đầu của dòng văn học yêu nước Việt Nam cận đại
Chắc hẳn ai cũng tò mò về tiểu sử cũng như hành trình sự nghiệp của một trong những tiền vệ xuất sắc bậc nhất Việt Nam.
Nguyễn Hoàng Đức là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm cho Câu lạc bộ Viettel và Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam.
Bố mẹ và bạn gái Hoàng Đức tại lễ trao giải Quả bóng vàng năm 2021
– Tên khai sinh: Nguyễn Hoàng Đức
– Bố & mẹ: Nguyễn Văn Lượng – Hoàng Thị Thoa
– Nơi sinh: số 147A Nguyễn Hữu Cầu, Khu dân cư số 12, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
Hành trình sự nghiệp đội bóng trẻ Hải Dương
Nguyễn Hoàng Đức cùng các bạn thường xuyên rủ nhau ra góc phố để đá bóng sau mỗi giờ cơm trưa từ năm học lớp 2. Chỉ 2 năm sau đó, năng khiếu bóng đá của Đức được các thầy ở Trung tâm Đào tạo bóng đá trẻ Hải Dương phát hiện và ngỏ ý muốn đưa vào trung tâm tập luyện.
Ở đây, anh được các thầy đánh giá cao ở kỹ thuật thi đấu và ý chí phấn đấu vươn lên, luôn được các thầy giao giữ chức đội trưởng của đội khi tham gia các giải đấu thiếu niên.
Tại VCK U19 Quốc Gia 2016 tổ chức tại Nha Trang, cầu thủ quê Hải Dương đã để lại những đấu ấn đậm nét trong mùa giải này và được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất VCK năm 2016.
Hoàng Đức và mẹ hồi nhỏ CLB Viettel
Năm 2017, Hoàng Đức chính thức gia nhập câu lạc bộ Viettel. Với chiều cao ấn tượng cùng với lối đá chân trái khéo léo có một không hai, anh được huấn luận viên đưa vào đá ở vị trí tiền vệ. Anh thường xuyên nằm trong đội hình thi đấu chính của câu lạc bộ.
Năm 2018, Nguyễn Hoàng Đức thi đấu rất bùng nổ. Anh đá chính 17 trong tổng số 18 trận ở nhiều vị trí khác nhau, ghi được 9 bàn thắng và có 3 kiến tạo để giúp Viettel vô địch V League 2 năm 2018, qua đó thăng hạng V-League 1 năm 2019. Cá nhân anh cũng được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải.
Năm 2020, lại là một năm thi đấu bùng nổ của Hoàng Đức, là 1 trong những nhân vật chủ chốt của Viettel và cùng Viettel vô địch V League 1 năm 2020, về nhì cúp Quốc gia năm 2020.
Đầu năm 2021, anh cùng Viettel về nhì giải Siêu cúp Quốc gia năm 2020, sau khi để thua câu lạc bộ Hà Nội với tỉ số tối thiểu 1-0. Mùa giải 2021 đi được đến hết vòng 12 thì bị dừng và kết quả là hủy giải đấu vì sự trở lại của đại dịch Covid-19 ở Việt Nam. Ở giải đấu AFC Champions League 2021, anh thi đấu khá ấn tượng, thi đấu cả 6 trận và ghi được 1 bàn thắng.
Tháng 9/2021, có tin báo câu lạc bộ Pathum United (Thái Lan) ấn tượng với phong cách thi đấu của anh và muốn mượn anh về thi đấu. Ngoài ra cũng có một số câu lạc bộ khác ở châu Á đã để mắt đến Hoàng Đức.
Năm 2017, Hoàng Đức được triệu tập vào đội hình đội U-20 Việt Nam tham dự Vòng chung kết Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2017 tại Hàn Quốc.
Ở lượt trận cuối bảng K vòng loại Giải vô địch bóng đá U-23 châu Á 2020, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong màu áo U-23 Việt Nam, đó là cú volley nâng tỉ số lên 2-0 trong chiến thắng đậm đà chung cuộc với tỉ số 4-0 trước U-23 Thái Lan.
Ở Sea Games 30 tại Philippines, anh chơi nổi bật và có một bàn thắng giúp U22 Việt Nam ngược dòng thành công trước U22 Indonesia, sau đó anh cùng các đồng đội đăng quang vô địch giải đấu khi gặp lại chính đổi thủ này ở chung kết.
Ở giai đoạn 2 của vòng loại thứ 2 World Cup 2022, Hoàng Đức lần đầu tiên được đá chính trong một trận đấu chính thức của đội tuyển Việt Nam trước Malaysia khi Quang Hải bị án treo giò, và chấn thương của Hùng Dũng đã phần nào giúp anh có cơ hội thể hiện nhiều hơn. Kể từ đó anh luôn đá chính cho đội tuyển trong các trận đấu ở vòng loại thứ 3 và có màn thể hiện xuất sắc, ghi điểm với các câu lạc bộ châu Á.
Thành tích sự nghiệp Câu lạc bộ Viettel
Giải vô địch U-19 châu Á: Hạng tư 2016
Giải vô địch U-19 Đông Nam Á: Hạng ba 2016
Tóm tắt quá trình công tác của Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên Trịnh Việt Hùng. Đồ họa TTXVN
Ngày 11/7, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã bầu đồng chí Trịnh Việt Hùng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên, nhiệm kỳ 2020 - 2025.