Lễ hội diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 12 đến hết ngày 14/12 (nhằm ngày 14-16/11 Âm lịch). Trong các ngày diễn ra lễ hội, Ban quản lý khu di tích Gò Tháp và Ban hội hương tổ chức các nghi lễ long trọng theo phong tục cổ truyền như các lễ: Cầu an, thỉnh sanh, tế thần nông và lễ bái cúng hai vị anh hùng dân tộc là Đốc Binh Kiều và Thiên Hộ Dương...
Lễ hội diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 12 đến hết ngày 14/12 (nhằm ngày 14-16/11 Âm lịch). Trong các ngày diễn ra lễ hội, Ban quản lý khu di tích Gò Tháp và Ban hội hương tổ chức các nghi lễ long trọng theo phong tục cổ truyền như các lễ: Cầu an, thỉnh sanh, tế thần nông và lễ bái cúng hai vị anh hùng dân tộc là Đốc Binh Kiều và Thiên Hộ Dương...
Ngày nay, gạo tẻ đã trở thành nguồn lương thực chính trong ẩm thực của người Thái. Tuy nhiên, gạo nếp vẫn được coi là món ăn truyền thống của họ. Để chế biến gạo nếp, người Thái thường ngâm gạo qua đêm, sau đó đem đun lên và chế biến thành xôi. Món ăn này thường được kết hợp với ớt giã hoà muối, tỏi, các loại rau thơm, mùi, lá hành và thịt của các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại như gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng… Tất cả được kết hợp lại gọi là món chéo.
Các món ăn của người Thái rất đa dạng, bao gồm cả các loại thịt của gia súc, gia cầm và các món cá, cua, ghẹ, tôm. Thịt được chế biến thành nhiều món như nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm, nướng, lùi, đồ, sấy, canh, xào, rang, luộc… Người Thái ưa thích các vị cay, chua, đắng, chát, bùi và ít sử dụng các vị ngọt, lợ, đậm, nồng. Trong ẩm thực của họ, nước mắm và rượu cần là hai loại gia vị không thể thiếu.
Ngoài ra, người Thái cũng có thói quen hút thuốc lào bằng điếu ống tre hoặc nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm hoặc khô nỏ. Trước khi hút, họ thường có thói quen mời các vị khách xung quanh như trước khi ăn.
Trước đây, người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và theo truyền thống, việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có hai bước chính:
Tuy nhiên, hiện nay, việc lấy vợ và lấy chồng của người Thái đã thay đổi nhiều, phù hợp với tình hình xã hội hiện đại.
Lễ tang của người Thái gồm hai bước chính:
Người Thái Đen thường tổ chức lễ cúng tổ tiên vào tháng 7 hoặc tháng 8 âm lịch hàng năm. Trong lễ cúng, người Thái Đen sẽ đưa các món đồ và thức ăn lên bàn cúng, gọi là “bàn tổ”, để tưởng nhớ và tôn vinh tổ tiên của mình.
Người Thái Trắng lại tổ chức lễ tết theo lịch âm. Trong dịp này, họ thường dùng các loại thực phẩm truyền thống như bánh chưng, bánh giầy, thịt lợn, gà, và rượu để cúng tết và chúc mừng.
Còn bản Mường thì tổ chức nhiều loại lễ cúng khác nhau, bao gồm cúng thần đất, thần nước, thần núi và các linh hồn của người đã khuất. Những lễ cúng này thường được tổ chức vào các dịp đặc biệt hoặc vào các ngày lễ quan trọng.
Các nhóm người Thái, bao gồm Thái Trắng và Thái Đen, có nhiều điểm chung trong trang phục hằng ngày, tuy nhiên vẫn có nét đặc trưng riêng để phân biệt. Phụ nữ Thái Trắng thường mặc áo cánh ngắn màu sáng, trắng, có thể được cài cúc bạc tạo hình bướm hoặc ong; váy thường màu đen không có hoa văn. Khăn đội đầu bằng vải chàm dài khoảng hai mét.
Mặc dù có những điểm khác biệt trong trang phục, nhưng cả phụ nữ Thái Trắng và Thái Đen đều rất tinh tế và tỉ mỉ trong cách ăn mặc, tạo nên nét đẹp riêng của mỗi nhóm.
Ở Việt Nam, có hai nhóm Thái lớn là Thái Trắng và Thái Đen, cùng với một vài nhóm nhỏ khác. Nhà của người Thái Trắng có nhiều đặc điểm giống với nhà của người Tày-Nùng, trong khi nhà của người Thái Đen lại gần với nhà của các dân tộc Môn-Khơ Me.
Nhà Thái Đen có nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ được trang trí theo nhiều kiểu khác nhau.
Bộ khung nhà của người Thái Đen có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Khay điêng tương tự như khứ kháng của người Tày-Nùng, nhưng có thêm hai cột để mở rộng. Cách bố trí trên mặt bằng của nhà Thái Đen khá độc đáo: mỗi gian đều có tên riêng, và trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành cho nơi ngủ của các thành viên trong gia đình và một nửa dành cho bếp và tiếp khách nam.
Trong suốt chiều dài hơn 4 nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã bao lần phải vùng lên đánh đuổi giặc ngoại bang xâm lược. Vì thế, nỗi ước mong, khát vọng hòa bình, độc lập luôn dồn nén, cháy bỏng trong mỗi người dân nước Việt. Đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, khát vọng ấy đã được thổi bùng lên, biến thành sức mạnh dời non lấp biển. Ngày 2/9/1945, ước mong cháy bỏng của dân tộc đã thành hiện thực.
Từ một nước Việt Nam thuộc địa, không có tên trên bản đồ thế giới, dân tộc Việt Nam đã có thể ngẩng cao đầu, đã hiên ngang khẳng định vị thế là một quốc gia độc lập, tự chủ. Sau ngày lập nước, lớp cha trước, lớp con sau lại nối tiếp nhau chiến đấu, hi sinh để bảo vệ và giữ vững nền độc lập.
Trong không khí tự hào của ngày Tết độc lập, chúng ta cùng nhìn lại một chặng đường đầy gian nan, thử thách nhưng cũng vô cùng vinh quang và tự hào của dân tộc Việt Nam qua trao đổi giữa phóng viên VOV với Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên, Giảng viên chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
Đối với giáo dục, theo số liệu của Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông chiếm 58,2%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học chiếm 103,4%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học cơ sở là 83,1%, tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học phổ thông là 37,4%. Tỷ lệ trẻ em ngoài trường là 17,6%.
Ngôn ngữ của người Cờ Lao thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái – Ka Đai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau, nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao đỏ, Cờ Lao xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng đồng họ quen sử dụng tiếng Quan họa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Hmong.
PV: Trong chiến tranh hay hòa bình, trong khó khăn hay thuận lợi thì Đảng ta cũng luôn kiên định, kiên trì mục tiêu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì sao chúng ta phải luôn gắn kết hai mệnh đề này chặt chẽ với nhau như vậy?
TS Nguyễn Thị Liên: Trước hết cần khẳng định, độc lập dân tộc và CNXH có mối quan hệ thống nhất, biện chứng với nhau. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo của mình. Như vậy, phải giành được độc lập dân tộc mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội và có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập dân tộc.
PV: Nếu tách rời độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội thì hệ lụy sẽ như thế nào?
TS Nguyễn Thị Liên: Đã có thời điểm các Đảng Cộng sản phải trả giá cho những sai lầm, khuyết điểm. Mà chúng ta cũng thấy một minh chứng rõ ràng, đó là thời kỳ sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Đó chính là ví dụ rõ nét nhất. Song, cần nhận thấy, đây là sự sụp đổ của một mô hình cũ, cụ thể của CNXH đã lạc hậu. Quá trình lãnh đạo cách mạng thì Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lãnh đạo ấy, thì Đảng và Nhân dân ta vừa thực hiện vừa gắn với nghiên cứu, đánh giá và dự kiến những mô hình phù hợp, những bước đi phù hợp với từng giai đoạn.
PV: Trong bối cảnh thế giới còn đầy những bất ổn, chiến tranh, xung đột thì Việt Nam chúng ta vẫn giữ được hòa bình ổn định. Đó là minh chứng sinh động, rõ nét khẳng định con đường mà chúng ta lựa chọn là đúng đắn?
TS Nguyễn Thị Liên: Chúng ta cũng biết là, hiện nay, mặc dù hòa bình, ổn định vẫn là xu thế chủ đạo, song những diễn biến phức tạp, mất ổn định giữa các nước trong khu vực hay trên thế giới vẫn diễn ra, tồn tại những bất ổn. Và những bất ổn này là nguyên nhân dẫn tới xung đột, bùng phát xung đột, thậm chí là những xung đột sắc tộc, tôn giáo tranh chấp lãnh thổ, tranh chấp tài nguyên, can thiệp lật đổ…vẫn cứ diễn biến phức tạp. Các điểm nóng vẫn tồn tại và mở rộng ở nhiều khu vực trên thế giới.
Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn vừa cảnh báo số người di cư trên thế giới có thể tăng mạnh do tác động của xung đột, khủng hoảng lương thực và biến đổi khí hậu. Trước những diễn biến phức tạp, bất ổn như thế, chúng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đem lại độc lập, tự chủ thực sự cho nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
PV: Mỗi thời kỳ cách mạng của đất nước lại đặt ra cho chúng ta những cơ hội, thách thức mới. Vậy trong tình hình hiện nay, thì đâu được coi là mẫu số chung để chúng ta có thể quy tụ, tập hợp được sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân?
TS Nguyễn Thị Liên: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Sau này, tư tưởng của Bác được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư tưởng đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy là mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện giữa ý Đảng - Lòng dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Như vậy, đại đoàn kết toàn dân tộc là giá trị cốt lõi, là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Dân tộc Cờ Lao (hay còn được gọi là Gelao, Ke Lao) là một dân tộc cư trú ở vùng đông nam Trung Quốc và miền nam Việt Nam. Họ là một trong 54 dân tộc của Việt Nam và được công nhận là một trong 56 dân tộc chính thức của Trung Quốc.